Bỏ qua

Khái niệm:: Động lực

1. Khái niệm

🔎 Phân tán trách nhiệm là một hiện tượng tâm lý mà một người sẽ cảm thấy bản thân ít có trách nhiệm phải hành động khi có nhiều người cùng chứng kiến một sự việc nào đó [1]. Số người chứng kiến càng tăng, thì khả năng họ giúp đỡ một ai đó đang cần hỗ trợ càng thấp.

📖 Sự phân tán trách nhiệm xảy ra khi một công việc hoặc nhiệm vụ được chia sẻ cho một nhóm người thay vì một cá nhân cụ thể [1]. Khi đó, họ nhận thấy trách nhiệm của bản thân được giảm xuống bởi nó đã được phân chia cho nhiều cá thể. Dẫn đến việc họ không có quá nhiều động lực để hành động, nên các trường hợp cần giúp đỡ thường xuyên bị bỏ qua. Bên cạnh đó, sự phân tán trách nhiệm còn được xem là nguyên nhân phổ biến cho hiệu ứng người ngoài cuộc [1].

Ví dụ:

Trong một lớp học đông đúc, khi giảng viên hỏi “có bạn nào/ai đó…” thì đa số mọi người sẽ lờ đi với tâm thế “nhiều người vậy mà, sẽ có ai đó trả lời thôi”. Tuy nhiên, khi giảng viên gọi một bạn sinh viên cụ thể - người duy nhất có trách nhiệm trả lời - thì bạn ấy sẽ không thể phớt lờ và sẽ trả lời câu hỏi.

Khi trò chuyện trong nhóm chat nhiều người, nếu một bạn hỏi là “Ê mọi người ơi, chỉ tui giải bài này với!” thì thường sẽ bị “ăn seen” hoặc rất lâu mới có người giúp. Vì tin nhắn này được gửi vào nhóm chung mà không gọi tên ai cụ thể cả, nên mọi người có xu hướng cho là “nó kêu ai chứ không phải mình đâu”. Thay vào đó, nếu tin nhắn đó được gửi riêng hoặc gắn thẻ một người xác định thì sẽ dễ dàng được giúp hơn nhiều.

🙅‍♂️ Tuy nhiên, chúng ta cũng cần hiểu rằng, những người rơi vào tình huống này thường ít hoặc không giúp đỡ không phải vì họ thiếu lòng trắc ẩn. Mà có thể bản thân họ không đủ khả năng đối mặt và xử lý những tình huống khó khăn như thế.

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định giúp đỡ trong hiệu ứng người ngoài cuộc

💁‍♀️ Bên cạnh phân tán trách nhiệm thì sự quyết định giúp đỡ của “những người ngoài cuộc” còn bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác thuộc về cá nhân, môi trường hay bối cảnh tình huống. Từ đó làm tăng hay giảm khả năng quyết định giúp đỡ của các cá nhân chứng kiến sự việc:

👀 Nhận thức của thành viên trong nhóm xã hội (social category membership): Khả năng người ngoài cuộc giúp đỡ người gặp nạn sẽ cao hơn khi họ là thành viên của nhóm nội (in-group) - là nhóm mà các cá nhân có thể xác định thành viên trong nhóm - vì chúng ta dễ cảm thấy đồng cảm và có trách nhiệm hơn đối với các thành viên thuộc cùng nhóm với mình. Bên cạnh đó, chúng ta thường phân biệt đối xử với những người thuộc nhóm ngoại (out-group) - nơi các cá nhân không được xác định là thành viên của nhóm - chẳng hạn như những người khác chủng tộc, giới tính [2] [3].

🏡 Bối cảnh môi trường thành thị hay nông thôn: Các nghiên cứu cho thấy người dân tại các thị trấn nhỏ có nhiều khả năng giúp đỡ hơn. Khi một người đàn ông đột nhiên ngã xuống và kêu lên vì đau đớn, khoảng một nửa số người tại một thị trấn nhỏ đã dừng lại và giúp đỡ. Nhưng ở các thành phố lớn, chỉ có 15% người qua đường dừng lại để giúp đỡ [4]. Theo giả thuyết quá tải đô thị (Urban Overload Hypothesis), điều này có thể không phải do khác biệt về bản chất con người mà vì những người sống ở các thành phố liên tục bị tấn công bởi những kích thích khác nhau như tiếng ồn, tin tức, sự đông đúc hay bận rộn của nhịp sống thành thị nên họ có xu hướng giữ cho mình tránh bị quá tải bởi nó [5]. Bên cạnh đó, những người sống lâu ở một khu vực cũng được tìm thấy có nhiều khả năng tham gia vào các hành vi ủng hộ xã hội (prosocial behavior) tại khu vực đó hơn là những người mới [5].

🌏 Ảnh hưởng của nền văn hóa: Các nhà nghiên cứu đã xây dựng một tình huống cần giúp đỡ tại các thành phố lớn ở 23 quốc gia và quan sát phản ứng của mọi người xung quanh. Kết quả cho thấy những người thuộc nền văn hóa coi trọng giá trị văn hóa simpatía - tôn vinh sự thân thiện, lịch sự và giúp đỡ người khác - có xu hướng giúp đỡ người lạ trên đường phố cao hơn người so với các nền văn hóa không coi trọng điều này [5]. Một nghiên cứu khác cũng cho thấy những cá nhân thuộc nền văn hóa đề cao chủ nghĩa cá nhân cảm thấy ít có mong muốn và trách nhiệm phải giúp đỡ trong các tình huống xã hội so với những người ở nền văn hóa xem trọng chủ nghĩa tập thể [6].

🤗 Giả thuyết đồng cảm - vị tha (Empathy-Altruism Hypothesis) cho rằng lòng vị tha thúc đẩy việc giúp đỡ người khác, ngay cả khi phải trả giá cho điều đó. Theo giả thuyết này, khi mọi người cảm thấy đồng cảm với người khác (chẳng hạn như họ từng trải qua những sự kiện và cảm xúc mà người kia trải qua), họ sẽ cố gắng giúp đỡ người đó hoàn toàn vì lý do vị tha [5].

👫 Thuyết trao đổi xã hội (Social Exchange) đề cập đến cái giá và phần thưởng của việc giúp đỡ (The Costs and Rewards of Helping) mô tả rằng mọi người giúp đỡ người khác để tối đa hóa phần thưởng xã hội (sự khen ngợi, ngưỡng mộ) và giảm thiểu chi phí xã hội (tiền bạc, công sức, thời gian). Việc giúp đỡ người khác được xem như một “khoản đầu tư” cho tương lai, theo quy tắc có qua có lại, một ngày nào đó có thể có người sẽ giúp chúng ta khi chúng ta cần.

😊 Tâm trạng tốt khiến chúng ta quan tâm đến người khác nhiều hơn và gia tăng khả năng giúp đỡ. Bên cạnh đó, nỗi buồn cũng có thể làm tăng hành vi giúp đỡ, vì điều này khiến họ cảm thấy tốt hơn. Ngoài ra, khi cảm thấy tội lỗi, họ cũng có xu hướng giúp đỡ để “bù đắp” cảm giác tội lỗi của bản thân khi làm một điều sai trái [5].
Nguồn:: KHI “CHIẾC BÁNH”… - Statistically Significant Squad | Facebook

Từ những nội dung mình đã tìm hiểu thì sự phân tán trách nhiệm được đề cập là một “hiện tượng tâm lý” mô tả việc một cá nhân cảm thấy ít có trách nhiệm hơn khi có sự xuất hiện của nhiều người cùng chứng kiến hay là một trong những người có liên quan đến việc đó (một nhóm người cùng chứng kiến tai nạn, một lớp học đông người, một nhóm làm việc với nhiều thành viên,…). Mình thấy định nghĩa này thiên về việc mô tả về nhận thức, tâm lý của mỗi cá nhân. Đây cũng thường được đề cập là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bàng quan á. Hiểu một cách đơn giản là họ thấy có nhiều người => nhận thức về việc bản thân ít có trách nhiệm với việc đó (phân tán trách nhiệm) => ít động lực hành động => sự bàng quan, ko hành động (hiệu ứng bàng quan). Ngoài ra bài trước cũng có đề cập đến việc cảm thấy có trách nhiệm trong mô hình quyết định giúp đỡ ý ạ. Bạn có thể tham khảo thử

Còn hiệu ứng bàng quan như được định nghĩa là một “hiện tượng tâm lý xã hội” đề cập đến xu hướng ít hoặc khó đưa ra quyết định giúp đỡ hơn, thiên về việc mô tả những biểu hiện về mặt hành vi của số đông nhiều hơn.

Còn về việc mong muốn hoàn thành nhiệm vụ hay các tình huống bất ngờ thì mình nghí nó có thể phản ánh một phần ý ạ.

Việc phân tán trách nhiệm cũng có thể xảy ra ở các tình huống người tham gia không trông đợi là sẽ gặp phải tình huống đó ví dụ như khi giáo viên giao bài tập tại lớp cho một nhóm thì sự phân tán trách nhiệm sẽ dẫn đến việc một số cá nhân cảm thấy có trách nhiệm phải làm và họ sẽ làm việc. Còn số còn lại thì ngồi chơi vì họ cảm thấy ko có nhiều trách nhiệm với công việc của nhóm. Một ví dụ khác là việc có một bãi nước ở giữa phòng học hay khúc cây chắn giữa đường thì mn sẽ đi qua và phớt lờ nó vì có thể họ cảm thấy mình ko có trách nhiệm phải xử lý và dọn dẹp chúng vì ở đó cũng có nhiều người khác nữa.

Đồng thời, việc hiệu ứng bàng quan cũng có thể áp dụng cho những tình huống mà ở đó người tham gia có mong muốn hoàn thành nhiệm vụ ngay từ đầu ví dụ như việc muốn giúp đỡ giáo viên khi họ nói “ai đó hay cho tôi mượn bút” trong một lớp học đông người thì dù cá nhân muốn giúp đỡ thì việc có đông người cùng nghe thấy cũng khiến họ cảm thấy ai đó sẽ làm điều đó (người ngồi gần hơn, người nhiều bút hơn,…) dẫn đến việc có thể không ai cho mượn.

Ngoài ra, một nghiên cứu ở trẻ cũng cho thấy kết quả có thể giúp rõ hơn chỗ này. NC tìm thấy tỉ lệ trẻ giúp đỡ khi có 1 trẻ khác ở cùng đã thấp hơn tỉ lệ giúp đỡ của trẻ ở một mình trong cùng tính huống. Mặc dù trẻ trả lời là chúng cảm thấy có trách nhiệm và mong muốn giúp đỡ. Tuy nhiên, sự xuất hiện của 1 đứa trẻ khác đã khiến chúng cảm thấy khó khăn hơn trong việc thực hiện điều này.

Bạn có thể đọc thêm nghiên cứu tại: https://greatergood.berkeley.edu/article/item/helping_kids_overcome_the_bystander_effect

❓Động lực làm việc không liên quan đến sự khuếch tán trách nhiệm
Whose job is it? or The Responsibility Poem illustration: four people named Everybody, Somebody, Anybody and Nobody. Everybody is given a job but in the end Nobody takes responsibility for it
Người viết code thường làm một mình, không được hỗ trợ, không được trả tiền, chỉ làm vì sự đam mê. Họ cần xây dựng rất nhiều mối quan hệ tin tưởng được nhau